NGŨ HÀNH LUẬN

Thứ ba, 24/06/2014, 09:48 GMT+7

Thuyết Âm Dương - Ngũ Hành xuất phát từ Kinh Dịch cổ. Nguồn gốc của thuyết này là từ một mô hình tối cổ về các con số gọi là Hà Ðồ. Tương truyền do trời ban cho vua Phục Hy, một ông vua thần thoại của Trung Hoa, cách đây khoảng 4000 năm. Khi Ngài đi tuần thú Phương Nam, qua sông Hoàng Hà, bỗng thấy một con Long Mã hiện lên, trên lưng nó có những chấm đen trắng.

Khi về Ngài mới phỏng theo mà vẽ lại thành một bảng ký hiệu 10 số đếm bằng các chấm đen và trắng, xếp thành hai vòng trong và ngoài, theo đúng 4 phương: Nam, Bắc, Ðông, Tây. Ở chính giữa là hai số 5 và 10. Ngài gọi là Hà Ðồ, tức là bức đồ trên sông Hoàng Hà (chỉ là hình vẽ chứ không có chữ vì sự phát minh thuộc thời chưa có chữ viết).

Bảng Hà Ðồ chia 10 số đếm thành 2 loại số đối xứng nhau:



 

 

 

 

 

Số Dương, số Cơ, số Trời: 1, 3, 5, 7, 9 (chấm trắng).

Số Âm, số Ngẫu, số Ðất: 2, 4, 6, 8, 10 (chấm đen).

Số Sinh: 1, 2, 3, 4, 5.

Số Thành: 6, 7, 8, 9, 10.

Tuy nhiên, trong Hà Ðồ không phải chỉ có Âm Dương, bởi vì chỉ riêng cơ chế Âm Dương thì không đủ giải thích mọi biến thiên phức tạp của vũ trụ. Trong đồ hình còn có cả nội dung tương tác của 10 số đếm, thông qua sự định vị 5 con số đầu tiên là 5 con số Sinh, đại diện cho 5 yếu tố vận động trong vũ trụ, đã được ghi rõ trong bài ca quyết:


Thiên nhất sinh Thủy, Ðịa lục thành chi.
Ðịa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành chi.
Thiên tam sinh Mộc, Ðịa bát thành chi.
Ðịa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành chi.
Thiên ngũ sinh Thổ, Ðịa thập thành chi

Nghĩa Là:
Số Trời 1 sinh Thủy, thành số Ðất 6.
Số Ðất 2 sinh Hỏa, thành số Trời 7.
Số Trời 3 sinh Mộc, thành số Ðất 8.
Số Ðất 4 sinh Kim, thành số Trời 9.
Số Trời 5 sinh Thổ, thành số Ðất 10.

Như vậy Ngũ Hành đã được định cùng

với 5 cặp số Sinh Thành ra chúng, có

vị trí Tiên Thiên theo đúng các hướng

của các cặp số:

1-6: Hành Thủy, phương Bắc.
2-7: Hành Hỏa, phương Nam.
3-8: Hành Mộc, phương Ðông.
4-9: Hành Kim, phương Tây.
5-10: Hành Thổ, ở Trung Tâm.

Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ khi

tương tác lẫn nhau cũng phải theo cơ chế

hai chiều đối xứng là Âm và Dương, tức

cơ chế Tương Sinh và Tương Khắc.

Ðây là tinh thần căn bản của thuyết

Ngũ Hành. Theo đó cứ hai Hành đứng

kề cận nhau thì sinh cho nhau, luân

chuyển mãi không ngừng, các Hành

cách nhau thì khắc chế nhau, và cứ

thế mà luân lưu mãi, biểu thị cho triết

lý cao siêu của sự đổi thay, biến dịch của

vũ trụ tự nhiên.

Tính Chất Của Ngũ Hành


Hành Mộc gọi là Phu Hòa, vì nó phân bố

ra khí ôn hòa làm cho vạn vật được nẩy

sinh tươi tốt.

Hành Hỏa gọi là Thăng Minh, có nghĩa

là bừng sáng, có khí thịnh trưởng làm cho

vạn vật được phát triển.

Hành Thổ gọi là Bị Hóa, vì nó đầy đủ

khí hóa sinh vạn vật, làm cho vạn vật

được đầy đủ hình thể.

Hành Kim gọi là Thẩm Bình, vì nó phát

ra khí yên tĩnh, hòa bình, làm cho vạn

vật kết quả.

Hành Thủy gọi là Tĩnh Thuận, vì có khí

tĩnh mà nhu thuận làm cho vạn vật được

bế tàng, gìn giữ.

Quan hệ tương sinh nghĩa là giúp cho

nhau lớn hoặc sinh ra nhau. Quan hệ

tương khắc là ức chế, làm thiệt hại nhau,

nhưng phải biểu hiện cái ý quân bình và

giữ gìn lẫn nhau giữa các Hành. Quan hệ

tương sinh và tương khắc nếu thái quá lại

làm cho sự biến hóa bị trở ngại khác thường

thành ra thái quá hoặc bất cập.

Hành Mộc bất cập được gọi là Ủy Hòa,

nghĩa là thiếu khí ôn hòa sẽ làm cho vạn

vật rũ rượi, không phấn chấn.

Hành Hỏa bất cập được gọi là Phục Minh,

nghĩa là thiếu khí ấm áp làm cho vạn vật

ảm đạm, không sáng.

Hành Thổ bất cập gọi là Ty Giám, nghĩa là

không có khí hóa sinh, sẽ làm cho vạn vật

yếu ớt, không có sức.

Hành Kim bất cập gọi là Tòng Cách, nghĩa

là không có khí thu liễm, làm cho vạn vật

trở nên mềm giãn, không có sức đàn hồi.

Hành Thủy bất cập gọi là Hạc Lưu, nghĩa

là không có khí phong tàng dấu kín, làm cho

vạn vật bị khô queo.

Hành Mộc thái quá thì gọi là Phát Sinh, do

sự khuếch tán khí ôn hòa quá sớm, làm

cho vạn vật sớm phát dục.

Hành Hỏa thái quá gọi là Hách Hy, do

khuếch tán hỏa khí mãnh liệt, làm cho

vạn vật nóng nảy chẳng yên.

Hành Thổ thái quá gọi là Ðơn Phụ, do có

khí nồng hậu rắn chắc, làm cho vạn vật

không thể thành hình.

Hành Kim thái quá gọi là Kiên Thành, do có

khí cứng cỏi làm cho vạn vật ngay thẳng,

không có sức nhu nhuyễn.

Hành Thủy thái quá gọi là Lưu Diễn, do

có khí đầy tràn làm cho vạn vật phiêu lưu

không thể về chỗ.

Do đó 2 hệ thống tương sinh và tương khắc

không tồn tại đơn độc, biệt lập. Trong tương

khắc đã có ngụ ý tương sinh và ngược lại,

để vạn vật cùng tồn tại và phát triển. Bởi

vì vũ trụ không thể có sinh mà không có khắc,

không thể có khắc mà không có sinh. Không

có sinh thì vạn vật không nảy nở, không có

khắc thì sự phát triển quá độ sẽ có hại.

Âm Dương Ngũ Hành
























 
Ngũ Hành Tương Sinh Và Tương Khắc

 







 
Thiên Can Tương Sinh Và Tương Khắc

Dương
 





 
Âm 





 

 

Mười Thiên Can Ngũ Hợp



 

 






Mười Hai Ðịa Chi Lục Hợp



 

 








Mười Hai Ðịa Chi Tương Xung



 

 








Mười Hai Ðịa Chi Tương Hại



 

 






 

Mười Hai Ðịa Chi Tương Hình


 

 

Cách hình Vô Lễ: Tý hình Mão, Mão hình Tý.
Cách hình Dựa Thế: Dần hình Tỵ, Tỵ hình Thân, Thân hình Dần.
Cách hình Vô Ơn: Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi, Mùi hình Sửu.
Cách hình Tự Hình: Thìn tự hình Thìn, Ngọ tự hình Ngọ, Dậu tự hình Dậu, Hợi tự hình Hợi.

Tam Hợp Cục Của Mười Hai Ðịa Chi


 







Mười Hai Ðịa Chi Hàm Chứa Nhân Nguyên Ngũ Hành


 




 

Ngũ Hành Nạp Âm



 

 

Ðem 10 Thiên Can phối hợp với 12 Ðịa Chi, Can Dương với Chi Dương, Can Âm với Chi Âm biến hóa thành một chu kỳ 60 năm chẵn, từ Giáp Tý đến Quý Hợi để ghi Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Tức là những chu kỳ thời gian tuần hoàn theo 60 đơn vị Can - Chi, trong đó có 30 đơn vị thuộc Dương, 30 đơn vị thuộc Âm. Mỗi cặp đơn vị một thuộc Dương và một thuộc Âm đi liền nhau có cùng một Hành gọi là Ngũ Hành Nạp Âm.

Việc sáng tạo Ngũ Hành Nạp Âm cho vòng Giáp Tý phải trải qua quá trình tính toán phức tạp, nên ngày nay các nhà làm lịch cũng như những nhà trạch cát đều sử dụng bảng tính Niên Mệnh đã được soạn sẵn từ xưa để lại.

Sự Suy Vượng Của Ngũ Hành



 

 

Sự suy vượng của Ngũ Hành được chia làm 5 giai đoạn, tương ứng với 5 giai đoạn của thời gian trong năm.
 

Hành Vượng Tướng Hưu Tử
Mộc Mùa Xuân Mùa Ðông Mùa Hạ Tứ Quý Mùa Thu
Hỏa Mùa Hạ Mùa Xuân Tứ Quý Mùa Thu Mùa Ðông
Thổ Tứ Quý Mùa Hạ Mùa Thu Mùa Ðông Mùa Xuân
Kim Mùa Thu Tứ Quý Mùa Ðông Mùa Xuân Mùa Hạ
Thủy Mùa Ðông Mùa Thu Mùa Xuân Mùa Hạ Tứ Quý


Vượng là giai đoạn thịnh nhất, phát triển mạnh nhất.

Tướng là giai đoạn thịnh vừa, phát triển chậm hơn.

Hưu là giai đoạn nghỉ ngơi, không còn phát triển.

 là giai đoạn bị suy giảm, sa sút.

Tử là giai đoạn chết, hoặc hoàn toàn bị khắc chế.


 

Ngũ Hành Và Bát Quái


 

 

Nguyên gốc chữ Quái là chữ Quải, có nghĩa là "treo". Thuở xưa người Trung Hoa dùng 8 thanh tre, trên mỗi thanh tre có ghi ký hiệu rồi đem treo ở 8 cột theo 8 hướng, từ đó mà thành tên Bát Quái. Bát Quái Gồm Có Tiên Thiên Bát Quái Và Hậu Thiên Bát Quái: 

Tiên Thiên Bát Quái





Tiên Thiên Bát Quái được Vua Phục Hy phỏng theo Hà Ðồ mà vạch ra, trong đó hàm chứa nhiều nội dung về nguyên tắc lý luận cơ bản của học thuyết Âm Dương

Hậu Thiên Bát Quái





Hậu Thiên Bát Quái do Văn Vương đã vẽ ra dựa theo Lạc Thư, hàm chứa cái dụng lớn lao của Bát Quái trong mọi biến thiên từ vũ trụ cho đến con người cùng vạn vật

 

Bảng Quy Loại Ngũ Hành


 

Sự biểu hiện, liên hợp, cùng ứng dụng của Ngũ Hành với thiên nhiên, con người, vạn vật rất lớn lao không thể nào tìm hiểu và trình bày được hết. Bảng liệt kê sau đây chỉ nói lên phần nào căn bản tương quan giữa Ngũ Hành cùng mọi vật như sau: 

Ngũ Hành Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
Bát Quái Chấn, Tốn Ly Cấn, Khôn Ðoài, Càn Khảm
Cửu Cung 3, 4 9 5, 8, 2 7, 6 1
Thiên can Giáp, Ất Bính, Ðinh Mậu, Kỷ Canh, Tân Nhâm, Quý
Ðịa Chi Dần, Mão Tỵ, Ngọ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi Thân, Dậu Hợi Tý
Mùa Xuân Hạ Cuối Hạ Thu Ðông
Thời Gian Rạng Sáng Giữa Trưa Chiều Tối Nửa Ðêm
Phương Hướng Ðông Nam Trung Tâm Tây Bắc
Khí Hậu Gió Nóng Ẩm Khô Lạnh
Ngũ Khí Phong Thử Thấp Táo Hàn
Ngũ Âm Giốc Chủy Cung Thương
Ngũ Du Tỉnh Huỳnh Du Kinh Hợp
Ngũ Nguyên Nguyên Tính Nguyên Thần Nguyên Khí Nguyên Tình Nguyên Tinh
Ngũ Ðức Nhân Lễ Tín Nghĩa Trí
Ngũ Vật Du Hồn Thức Thần Vọng Ý Hồn Phách Trọc Tinh
Ngũ Tinh Tuế Tinh Huỳnh Tinh Trấn Tinh Thái Bạch Thần Tinh
Hình Thể Trụ Thẳng Ðứng Chóp Nhọn Bằng Phẳng Tròn Uốn Lượn
Trạng Thái Sinh Trưởng Hóa Thâu Tàng
Màu Sắc Xanh Ðỏ Vàng Trắng Ðen
Cơ Thể Gân Mạch Thịt Da Lông Xương
Ngũ Quan Mắt Lưỡi Miệng Mũi Tai
Tạng Gan Tim Tỳ Phổi Thận
Phủ Mật Ruột Non Dạ Dày Ruột Già Bàng Quang
Ngũ Tân Bùn Mồ Hôi Nước Dãi Nước Mắt Nước Miếng
Ngũ Vị Chua Ðắng Ngọt Cay Mặn
Cảm Xúc Giận Mừng Lo Buồn Sợ
Giọng Hét Nói Ca Khóc Rên

 


Thuyết Âm Dương Ngũ Hành xuất hiện như một học thuyết triết học bao trùm mọi phương diện trong vũ trụ. Âm Dương, Ngũ Hành cùng song song tồn tại để bổ khuyết, chế hóa, cùng thúc đẩy sự sinh trưởng, biến hóa vô cùng của vạn vật.

Trải qua nhiều thời đại, các bậc Thánh Nhân đã dày công nghiên cứu, sáng tạo, cùng vận dụng thuyết Ngũ Hành vào những vấn đề rất lớn rộng, có liên quan mật thiết đến con người như thiên văn, lịch pháp, y học, dược học, võ học, thời sinh học, định chế xã hội, văn hóa, phong thủy, địa lý, chiêm tinh, bói toán v.v... Nên với phần Ngũ Hành Luận trên đây, hy vọng giới thiệu đến Quý Vị một vài nét tổng quát và căn bản của nền minh triết Ðông Phương cùng những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ Hành trong các lãnh vực nhân sinh.