Triết học đông phương , ứng dụng trong đông y

Thứ ba, 24/06/2014, 09:33 GMT+7

I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :

1.  KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :

Học thuyết âm dương là một bộ phận trọng yếu trong y học cổ truyền.

                        Người xưa nhận thấy sự vật trong thiên nhiên luôn luôn có sự mâu thuẫn, đối lập và thống nhất với nhau, không ngừng vận động đễ phát sinh phát triển và tiêu vong như: sáng tối, ngày đêm, trời đất, nóng lạnh, nước lửa . v.v..gọi là âm dương.

                        Trong y học cổ truyền học  thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị và bào chế đông dược.

I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :

1.  KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :

Học thuyết âm dương là một bộ phận trọng yếu trong y học cổ truyền.

                        Người xưa nhận thấy sự vật trong thiên nhiên luôn luôn có sự mâu thuẫn, đối lập và thống nhất với nhau, không ngừng vận động đễ phát sinh phát triển và tiêu vong như: sáng tối, ngày đêm, trời đất, nóng lạnh, nước lửa . v.v..gọi là âm dương.

                        Trong y học cổ truyền học  thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị và bào chế đông dược.

2. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :

a.  Âm dương đối lập : là sự mâu thuẫn giữa hai mặt âm dương như: ngày đêm, ngủ thức, nước lửa, lạnh nóng, hưng phấn và ức chế.

b. Âm dương hổ căn : là sự nương tựa vào nhau giữa hai mặt âm dương như : trong âm có dương, trong dương có âm.

c. Âm dương tiêu trưởng : là quá trình vận động không ngừng của âm dươngmọi sự vật sinh ra, lớn lên, già  cỗi, mất đi rồi lại sinh ra.

d.Âm dương bình hành : là sự thăng bằng giữa hai mặt đối lập.

Bốn mặt trên của sự vật nói lên các qui luật, mâu thuẫn nhưng thống nhất, thăng bằng nhưng vận động không ngừng, nương tựa nhưng chế ước lẫn nhau trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong.

Người xưa tượng trưng học thuyết âm dương bằng hình vẽ như sau :

      

 

 

3.      ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG VÀO TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN

ÂM

TẠNG

HUYẾT

DINH

BỤNG

HÀN

TRÁI

THUỶ

LƯƠNG

DƯƠNG

PHỦ

KHÍ

VỆ

LƯNG

NHIỆT

THỰC

BIỂU

PHẢI

HOẢ

ÔN

 

 

 

Bệnh tật sinh ra do sự mất thăng bằng  về âm dương, biểu hiện dương thắng, âm thắng, dương hư, âm hư. Ðiều trị bệnh là điều hoà lại âm dương. Trong chẩn đoán người ta nương tựa vào các cương lĩnh để xác định bệnh trong hay ngoài (biểu lý) nóng hay lạnh (hàn nhiệt) suy sụp hay hưng thịnh (hư thực) mô tả trạng thái và xu thế chung của bệnh tật thuộc âm hay dương để dùng thuốc âm hay thuốc dương mà điều trị cho thích hợp.

II. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :

1. KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :

  Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm  dương được  liên hệ một cách cụ thể hơn trong việc quan sát, quy nạp sự liên quan của các sự vật.

Trong y học người xưa vận dụng ngũ hành để phân tích sự tương quan trong các hoạt sinh lý. Ngoài ra còn dùng để tìm tác dụng của thuốc để áp dụng vào việc bào chế.

2. NỘI DUNG CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :

 Người xưa cho rằng trong thiên nhiên có năm loại vật chất chính đó là :Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ (nước), Hoả (lửa), Thổ (đất).

Mọi hiện tượng trong tự nhiên được xếp theo năm loại vật chất trên gọi là ngũ hành.

3.  BẢNG QUI NẠP THIÊN NHIÊN VÀ CƠ THỂ CON NGƯỜI THEO NGŨ HÀNH :

 

NGŨ HÀNH

HIÊN TƯỢNG

MỘC

HOẢ

THỔ

KIM

THUỶ

VẬT CHẤT

GỖ

LỬA

ÐẤT

KIM LOẠI

NƯỚC

MÀU SẮC

XANH

ÐỎ

VÀNG

TRẮNG

ÐEN

NGŨ VỊ

CHUA

ÐẮNG

NGỌT

CAY

MẶN

THỜI TIẾT

XUÂN

HẠ

TỨ QUÝ

THU

ÐÔNG

P.HƯỚNG

ÐÔNG

NAM

T. ƯƠNG

TÂY

BẮC

NGŨ TẠNG

CAN

TÂM

TỲ

PHẾ

THẬN

LỤC PHỦ

ÐỞM

T.TRƯỜNG

VỊ

Ð.TRƯỜNG

B. QUANG

NGŨ THỂ

CÂN

MẠCH

NHỤC

BÌ PHU

CỐT

NGŨ QUAN

MẮT

LƯỠI

MIỆNG

MŨI

TAI

TÌNH CHÍ

GIẬN

MỪNG

LO NGHĨ

BUỒN

SỢ

Trong điều kiện bình thường, thiên nhiên, vật chất và con người có liên quan mật thiết với nhau, tác động nhau chuyển biến không ngừng bằng thúc đẩy nhau (tương sinh) hoặc chế ước lẫn nhau (tương khắc) để giữ được mối thăng bằng âm dương.

4. CÁC QUI LUẬT HOẠT ÐỘNG CỦA NGŨ HÀNH :

a. Qui luật tương sinh :

  Mộc sinh Hoả      =     Can sinh Tâm

                             Hoả sinh Thổ       =     Tâm sinh Tỳ

                 Thổ sinh Kim       =    Tỳ sinh Phế

                                   Kim sinh Thuỷ     =     Phế sinh Thận

                  Thuỷ sinh Mộc    =    Thận sinh Can.

b. Qui luật tương khắc :

 Mộc khắc Thổ     =    Can khắc Tỳ

  Thổ khắc Thuỷ    =    Tỳ khắc Thận

  Thuỷ khắc Hoả    =   Thận khắc Tâm

   Hoả khắc Kim     =    Tâm khắc Phế

   Kim khắc Mộc   =    Phế khắc Can

                 5.  ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VÀO TRONG Y HỌC :

Ðể xác định vị trí của một bệnh lý sinh ra từ tạng phủ nào, mà tìm cách điều trị cho thích hợp, người xưa qui định có thể do một trong năm vị trí sau đây :

         Chính tà : do bản thân tạng ấy có bệnh

Hư tà  : do tạng trước không sinh được nó

Thực tà : do tạng sau nó đưa đến

Vi tà : do tạng khắc nó quá mạnh

Tặc tà : do nó không khắc được tạng khác.

Trong điều kiện bất thường về bệnh lý, có nhiều tạng phủ quá mạnh hay quá yếu sẽ xảy ra hiện tượng khắc quá mạnh (tương thừa) hay chống lại cái khắc mình (tương vũ) Ðông y dùng qui luật tương thừa hay  hay tương vũ để giải thích một số cơ chế sinh bệnh và áp dụng điều trị.

III.  HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :

1 KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :

Học thuyết thiên nhân hợp nhất, nói lên giữa con người và hoàn cảnh thiên nhiên xã hội luôn luôn mâu thuẫn nhưng thống nhất, con người luôn luôn chủ động thích ứng với thiên nhiên để sinh tồn, phát triển.

                Thí dụ :

                  Trời đất có sáng tối, con người có thức ngũ.

                  Trời lạnh người co giữ ấm, trời nóng người đổ mồ hôi giải nhiệt.

                  Trời có sáu khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả.

                  Ðất có ngũ hành : kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.

                  Người có ngũ tạng ứng với đất, lục phủ ứng với trời và thích nghi theo từng thời tiết bốn mùa.

2. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT VÀO Y HỌC

Học thuyết thiên nhân hợp nhất là nội dung của phương pháp phòng bệnh trong y học cổ truyền, nắm được nguyên lý của học thuyết sẽ giúp cho con người :

   - Cải taọ thiên nhiên bắt thiên nhiên phuc vụ đời sống.

                           - Chủ động rèn luyện sức khoẻ.

                           - Cải tạo tập quán củ, gìn giữ mỹ tục.

                           - Rèn luyện ý chí chống dục vọng cá nhân.

                           - Ăn tốt, mặc ấm, giữ vệ sinh cá nhân và hoàn cảnh.

                           - Ðiều độ về ăn uống, sinh hoạt, lao động, tình dục. v..v.

      IV. KẾT LUẬN :

          Từ 3 học thuyết âm dương, ngũ hành, thiên nhân hợp nhất. Y học cổ truyền đi đến một quan niệm toàn diện và thống nhất chỉnh thể trong phương pháp phòng bệnh, chẩn đoán và điều trị bệnh tật.

           Người thầy thuốc phải thấy con người ở thể thống nhất toàn vẹn giữa các chức phận, giữa tinh thần và vật chất, giữa cá nhân và hoàn cảnh chung quanh để đi đến các vấn đề

           - Phòng bệnh sống lâu.

            - Chữa người có bệnh chứ không phải chữa bệnh.

           - Nâng cao chính khí con người là chính để thắng được mọi bệnh tật. 

  

 QUAN NIỆM CƠ THỂ HỌC THEO ÐÔNG Y

  I. TẠNG PHỦ 

1. KHÁI NIỆM :

     Căn cứ vào hoạt động của cơ thể con người lúc bình thường và lúc có bệnh  người xưa qui nạp thành những nhóm chức năng khác nhau, rồi đặt tên cho các cơ quan  trong cơ thể gọi là Tạng Tượng ( hiện tượng của tạng ).

     Nhóm chức năng có nhiệm vụ chứa đựng, chuyễn hoá gọi là Tạng, gồm có : Tâm. Can, Tỳ, Phế, Thận, Tâm Bào.

     Nhóm chức năng có nhiệm vụ thu nạp và chuyễn vận gọi là phủ , gồm có : Tiểu Trường, Ðại Trường, Ðởm, Vỵ, Bàng Quang, Tam Tiêu.

      Ngoài ra còn có các hoạt động khác như : Dinh, Vệ, Khí, Huyết, Tinh, Thần, Tân, Dịch.

  2. CÁC TẠNG :

   A/ TÂM :

   Ðứng đầu các tạng phụ trách về các hoạt động thần kinh như : Tư duy, trí nhớ, thông minh, khi có bệnh thường hay hồi hợp, sợ hải, phiền loạn, hay quên .v.v.

  Quan hệ với huyết mạch : Khi có bệnh sẽ sinh hiện tượng bần huyết, tóc khô, mạch yếu.

  Khai khiếu ra lưỡi : Khi sốt cao lưỡi đỏ, Tâm huyết hư lưỡi nhạt màu. Như vậy Tâm bao gồm một so hoạt động về tinh thần và tuần hoàn huyết mạch. Khi có bệnh thường có các hôi chứng sau :

  Tâm dương hư : Kinh khủng, hồi hô?, hay quên, tự hãn.

  Tâm âm hư : Mất ngũ, mộng mị, hồi hô?, lo sợ.

  Tâm nhiệt : Mắt đỏ, miệng khát, họng khô, lưỡi đỏ, nói nhảm.

  Khi nói đến Tạng Tâm vì là tạng đứng đầu mọi tạng nên có một tạng phụ bảo vệ nó gọi là Tâm  Bào Lạc. Các biểu hiện bệnh lý không khác gì Tạng Tâm.

    B/ CAN :

  Thường chia hai loại :

  Can khí : Biểu hiện tình trạng hưng phấn, găng động, cáu gắt, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.

Can huyết : Phụ trách các hoạt động về kinh nguyệt và sự nuôi dưỡng các cân cơ

 Quan hệ với cân: bao gồm các hoạt động vận động, khi có bệnh run tay chân, teo cơ, cứng khớp, vận động đi lại khó khăn.

  Khai khiếu ra mắt: mắt mờ, quáng gà, mắt sưng, nóng đỏ.

  Can âm hư: ( can huyết hư ) kinh nguyệt ít, móng tay, da khô, mắt mờ, gân thịt run giật co quắp.

  Can dương thịnh: nhức đầu, hoa mắt, ù tai, mặt đỏ, mắt đỏ, hay cáu gắt

  C/ TỲ:

Phụ trách việc hấp thu đồ ăn và dinh dưỡng, phản ảnh hoạt động tiêu hoá từ miệng đến hậu môn. Về  sinh lý, bệnh lý 

Quan hệ với cơ nhục : Tỳ hư, ăn kém, sút cân, thịt mềm nhảo, cơ yếu.

Khai khiếu ra môi miệng : Ăn không ngon, nôn mửa.

Chức năng nhiếp huyết :Chảy máu lâu ngày do Tỳ không nhiếp huyết.

Tỳ hư : Ăn kém, chậm tiêu, đầy hơi, tiêu chảy kéo dài, cơ nhục mềm nhảo.

Tỳ hư hàn: đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, ợ hơi, tay chân lạnh.

D/ PHẾ:

Phụ trách về hô hấp và sự khí hoá hoạt động toàn thân.

Quan hệ với bì phu thông ra mũi họng và thanh quản biểu hiện lâm sàng có các triệu chứng:

Phế khí hư : thở nhanh nhỏ, yếu, nói nhỏ dễ ra mồ hôi sắc mặt trắng nhợt.

Phế nhiệt : ho sốt, mạch nhanh, đờm đặc dính, lưỡi đỏ.

Phế âm hư: ho khan, họng khô, khan tiếng lâu ngày, đạo hản, sốt âm triều nhiệt, khát nước.

Ð/ THẬN:

  Chia làm hai loại chủ đề về Thuỷ và Hoả:  Thận thuỷ hay Thận âm : thường biểu hiện quá trình ức chế.Thường có các triệu chứng: mất ngủ, đau lưng, ù tai, ra mồ hôi trộm, nhức xương, sốt hâm hấp, cầu táo, tiểu đỏ.

Thận hoả hay Thận dương: có những biểu hiện về hưng phấn. Nếu thận dương hư có các triệu chứng chân tay sợ lạnh, tiêu chảy kéo dài, mạch yếu, di tinh, hoạt tinh, liệt dương.

Thận tàng tinh, chủ về sự phát dục cơ thể và hoạt động sinh dục nam: thận hư trẻ con chậm phát triển trí tuệ, chậm biết đi, chậm mọc răng, người lớn hoạt động sinh dục giảm, đau lưng, di tinh, liệt dương.

Quan hệ với xương tuỷ, khai khiếu ra tai: Thận hư thường đau lưng, nhức mỏi, ù tai.

Trên lâm sàng thường có hội chứng sau:

Thận âm hư: họng khô,răng đau nhức lung lay, tai ù, hoa mắt, mất ngủ, nhức xương, đạo hản. Tinh thần ức chế.

Thận dương hư: đau lưng, lạnh cột sống, chân tay lạnh, hoạt tinh, liệt dương, ỉa chảy, tiểu đêm, tinh thần giảm hưng phấn.

3.  CÁC PHỦ:

  A. ÐỞM  :

-  Bài tiết ra chất mật.

-  Chủ về sự quyết đoán và sự dũng cảm.

  B. VỴ :

-  Chứa đựng và nghiền nát thức ăn.

-  Luôn có biểu hiện về bệnh lý ở răng miệng, sâu răng, hôi miệng, loét miệng thường do vị nhiệt.

 C. TIỂU TRƯỜNG :

-   Nhận thức ăn từ vị đưa xuống hấp thụ các chất tinh khiết biến thành huyết và tân dịch, dinh dưỡng các tạng, phủ, phân thanh giáng trọc, đưa các chất cặn bã xuống Ðại Trường và Bàng Quang.

 D. ÐẠI TRƯỜNG :

 Truyến đạo để bài tiết cặn bã.

  Ð. BÀNG QUANG :

Tiếp với thận để bài tiết nước tiểu.        

 E. TAM TIÊU :

   Là nhóm chức năng quan giữa các tạng,phủ trên và dưới với nhau. Sự khí hoá tam tiêu được chia làm ba phần.

-  Thượng tiêu : từ miệng đến tâm vị có các tạng Phế Tâm.

-  Trung tiêu : Từ tâm vị đến hậu môn vị có tạng Tỳ.

-  Hạ tiêu : Từ môn vị đến hậu môn có các tạng Can và Thận.

5.  CÁC HOẠT ÐỘNG KHÁC : DINH, VỆ, KHÍ, HUYẾT, TINH, THẦN, TÂN, DỊCH :

A.DINH :  là dinh dưỡng, một chất tinh hoa của thuỷ cốc tạo thành tinh khí được vận chuyển bên trong mạch để nuôi ngũ tạng, lục phủ và cung cấp dinh dưỡng toàn thân.

B.VỆ : là phần tinh hoa đi ngoài mạch giữ nhiệm vụ bảo vệ cơ thể.

C. KHÍ : gồm có khí hơi thở và khí nội lực làm nhiệm vụ xúc tiến cho dinh huyết nuôi dưỡng cơ thể.

D.HUYẾT : trung tiêu lấy tinh khí từ dinh dưỡng hoá thành huyết đổ vào trăm mạch để nuôi cơ thể.

E.TINH : gồm có tinh hoa của chất dinh dưỡng và tinh sinh dục, là sự phối hợp của khí huyết trong quan hệ dinh dưỡng cao cấp của cơ thể.

F.THẦN : là sự thể hiện của tư duy, trí tuệ, ý thức làm chủ hết thảy mọi sự hoạt động của sinh mạng con người.

G. TÂN DỊCH : là các chất nước có quan hệ đến quá trình tiêu hoá như : nước tiểu, mồ hôi, nước mắt, nước mũi .v.v..

PHỦ KỲ HẰNG : ngoài tạng phủ ra trong cơ thể còn có phủ kỳ hằng là những phủ khác thường gồm có :

A. NÃO TUỶ : thận sinh ra xương tuỷ, não là chỗ hội họp của tuỷ.

B. TỬ CUNG : chủ về kinh nguyệt, chủ về bào thai.

II. KINH LẠC :

  Kinh là những đường vận hành của khí chạy thẳng dọc theo cơ thể . lạc là những đường chạy ngang nối các kinh với nhau.

Hệ kinh lạc gồm các đường kinh khí nối liền từ trong tạng phủ ra ngoài được liên kết bắng các lạc nối với nhau, tạo thành một màng lưới chằng chịt khắp cơ thể. Kinh khí vận hành giúp cho cơ thể thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài. Trên những đường kinh có những nơi khí tụ lại gọi là huyệt. Có tất cả 12 đường kinh chính và 8 đường kinh phụ và khoảng 870 huyệt trên cơ thể.

 QUAN NIỆM VỀ BỆNH TẬT & PHƯƠNG PHÁP CHẨN ÐOÁN ÐIỀU TRỊ ÐÔNG Y

 

A.    NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH :

Trong y học cổ truyền chia làm 3 nguyên nhân gây bệnh :

-  Nội nhân : do thất tình : vui, giận, buồn, lo, nghĩ, kinh, sợ.

-  Ngoại nhân : do lục khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả.

-  Bất nội ngoại nhân : do té ngã, đả thương, trùng thú cắn.

1.Nội nhân :

-  Hỉ : (vui mừng)                     -   Hại đến tâm khí.

-  Nộ : (giận)                            -  Hại đến can khí.

-  Ưu, bi : (sầu, muộn)            -  Hại đến phế khí.

-  Tư : (lo lắng)                        -  Hại đến tỳ khí.

-  Khủng, kinh : (hoảng, sợ)   -  Hại đến thận khí.

           Bảy thứ tinh chí nói trên thực chất là những rối loạn về tâm lý xã hội đưa đến rối loạn chức  phận của tinh thần, gây ảnh hưởng đến công năng hoạt động của các tạng phủ.

2. Ngoại nhân :

-  Phong : gió chủ khí mùa xuân , thường kết  hợp với các khí khác như : phong hàn, phong nhiệt, phong thấp.

-  Hàn : lạnh chủ khí của mùa đông , hay làm tắc lại không ra mồ hôi, thường có phong hàn, hàn thấp.

-  Thử : nắng chủ khí về mùa hạ có đặc tính làm sốt cao, thường có : thương thử, trúng thử và thấp thử.

-  Thấp : độ ẩm thấp trong không khí, có các triệu chứng về tiêu hoá, thường có phong thấp, thấp thử và hàn thấp.

-  Táo : chủ khí của mùa thu, độ khô của không khí, thường gây những bệnh sốt cao, táo nhiệt.

-  Hoả : nhiệt, đặc tính của các bệnh dịch khí, lệ khí, truyền nhiễm. Thường có thấp nhiệt, phong nhiệt, thử nhiệt.

3.Bất nội ngoại nhân :

 Do sang chấn té ngã, đâm, chém, tai nạn, ăn uống, lao động, tình dục là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến sức khoẻ.

 B. BÁT CƯƠNG, BÁT PHÁP :

  I. BÁT CƯƠNG : (8 cương lĩnh).

      Trước tình trạng diễn biến phức tạp của triệu chứng bệnh, người thầy thuốc cần phải dựa vào 8 cương lĩnh chung nhất để đánh giá tình trạng, phân tích và qui nạp giúp cho việc chẩn đoán được chính xác.

      Tám cương lĩnh gồm : Âm , Dương, Biểu , Lý, Hàn, Nhiệt, Hư, Thực.

1. BIỂU LÝ :

 Là hai cương lĩnh phân tích và đánh giá về mức độ nông sâu của bệnh.

 Biểu : bệnh còn ở bên ngoài, ngoại cảm, còn ở kinh lạc biệu hiện sự viêm long khởi phát sốt có mồ hôi hoặc không mồ hôi, đau đầu cứng gáy tuỳ mức độ hư thực. Chưa có những rối loạn cơ năng trầm trọng.

 Lý : bệnh đã vào bên trong cơ thểcác triệu chứng diễn biến toàn phát có kèm theo những biến loạn cơ năng về tạng phủ, cũng như về tinh thần. Trong thực tế có những bệnh diễn biến vẫn còn bên ngoài nhưng nguyên nhân bệnh đã có từ bên trong.

Giữa biểu lý lại có triệu chứng bán biểu, bán lý như lúc nóng, lúc lạnh, ngực sườn đầy tức, buồn nôn, miệng đắng không thể giải biểu, không thể thanh lý, thanh nhiệt, mà phải dùng phương pháp hoà giải.

2. HÀN NHIỆT :

        Là hai cương lĩnh biểu hiện trạng thái khác nhau của bệnh tật.

      Trên lâm sàng thường có  những triệu chứng hàn nhiệt lẫn lộn. Nên khi xét những biểu hiện ta cần chú ý đến các mặt sau đây :

   Hàn : sắc mặt trắng, rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi nhạt, người ít nói, co ro, không khát thích ấm, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nhão, tay chân lạnh.

   Nhiệt : sắc mặt đỏ, rêu lưỡi dày vàng, chất lưỡi đỏ, hay nói, miệng hôi, khát, thích uống mát, tiểu tiện sẻn, đỏ, rắt, táo bón, tay chân nóng.

2. HƯ THỰC :    

Là hai cương lĩnh đánh giá về chính khí và tà khícủa cơ thểđể xem lại tác nhân gây bệnhvà sức chống lại của cơ thể.

Về hư ta nhận xét âm hư, dương hư, khí hư, huyết hư.

Về thực ta đánh giá mức độ khí trệ huyết ứ, thực nhiệt, thực hàn.

3 .ÂM DƯƠNG :

            Là hai cương lĩnh tổng quát, gọi là tổng cương dùng để đánh giá xu thế chung nhất của bệnh tật. Vì những triệu chứng biểu lý, hàn nhiệt, hư thực thường hay lẫn lộn. Biểu hiện lâm sàng của bệnh tật có thể âm thắng hay dương thắng.

II. BÁT PHÁP :

            Là 8 phương pháp dùng thuốc uống trong y học cổ truyền gồm : Hản, Thổ, Hạ, Hoà, Thanh, Ôn, Tiêu, Bổ.

1.HẢN PHÁP : (Làm cho ra mồ hôi).

Là phương pháp dùng các vị thuốc có tác dụng làm cho ra mồ hôi đưa các tác nhân gây bệnh ra ngoài, khi bệnh còn ở biểu phận. Trên lâm sàng hay dùng để chữa các bệnh ngoại cảm do phong hàn thấp nhiệt.

- phát tán phong hàn

- Phát tán phong nhiệt

- Phát tán phong thấp.

Chống chỉ định : khi bệnh nhân tiêu chảy, nôn, mất máu, mùa hè không nên cho ra mồ hôi nhiều.

2. THỔ PHÁP :  (Gây nôn).

Dùng các vị thuốc để gây nôn khi ngộ độc thức ăn, thức uống, thuốc độc.v.v.. Lúc bệnh còn ở thượng tiêu. Phương pháp này ít dùng trên lâm sàng.

3. HẠ PHÁP : (Tẩy xổ, nhuận trường).

Dùng các loại thuốc có tác dụng tẩy xổ và nhuận trường để đưa các chất ứ động ra ngoài bằng đường đại tiện như : phân táo, huyết ứ, đàm ứ.v.v..

Chỉ dùng phương này khi bệnh thuộc về thực chứng. Gồm có các cách :

- Ôn hạ : Dùng các vị thuốc xổ có tính cay ấm như bả đậu để tẩy hàn tích.

- Nhuận hạ : Dùng các vị thuốc có tính chất xổ nhẹ nhuận trường như : mồng tơi, rau muống.

- Hàn hạ : Dùng các vị thuốc có tính  lạnh như : Ðại hoàng, phát tiêu để tẩy nhiệt tích.

- Công hạ : Dùng các vị thuốc có tính chất xổ mạnh như : lư hội, tả diệo để trừ thực tích hạ tiêu.

- Phù chính công hạ : Cũng dùng thuốc xổ mạnh nhưng vì tỳ vị hư yếu nên phai phối hợp với thuốc kiện tỳ.

Chống chỉ định : khi bệnh còn ở biểu, sốt mà không táo, người già yếu, phụ nữ có thai hay sản hậu.

  4. HOÀ PHÁP (Hoà hoãn)

Dùng chữa các bệnh ngoại cảm còn bán biểu bán lý. Hàn nhiệt vãng lai không giải biểu được không thanh lý được, các bệnh rối loạn sự tương sinh tương khắc của Tạng Phủ, một số bệnh do sang chấn tinh thần.

        Trên lâm sàng thường dùng chữa một số bệnh như : Cảm mạo, lúc nóng lúc lạnh, rối loạn chức năng Can Tỳ, rối loạn kinh nguyệt.

  Chống chỉ định : Không dùng khi bệnh còn ở biểu hay vào lý.

  5/ THANH PHÁP : ( Làm cho mát ).

       Dùng các vị thuốc mát để làm hạ sốt khi tà khí đã vào lý phận. Trên lâm sàng thường dùng 3 cách:

- Thanh nhiệt lương huyết : Dùng các vị thuốc mát huyết như : Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm.

- Thanh nhiệt Tả hoả :  Dùng các vị thuốc để trừ hoả nhiệt như : Huyền sâm, sinh địa, thạch cao.

- Thanh nhiệt giải độc : Dùng các vị thuốc để giải nhiệt độc như : Kim ngân hoa, Bồ công anh, Chi tử, Nhân Trần.

-  Chú ý :  Dùng thận trọng trong trường hợp Tỳ Vị hư hàn, tiêu chảy kéo dài.

   6/ ÔN PHÁP: ( Làm ấm nóng )

    Dùng các loại thuốc ấm nóng để chữa các chứng hư hàn, quyết lảnh hồi dương cứu nghịch. Trên lâm sàng thường dùng các vị thuốc như: Nhân sâm,Phụ tử, Nhục quế, Sanh cương.

   7/ TIÊU PHÁP : ( Làm cho tan )

     Dùng để phá tan các chứng ngưng trệ, ứ đọng do hiện tượng ứ huyết,. Ứ nước do khí trệ gây ra. Trên lâm sàng thường dùng các cách như :

- Tiêu đạo : Dùng Hương phụ, Sa nhân để chữa đầy hơi, khí uất.

-Tiêu thũng : Dùng các vị như :Ý dỉ, Phục linh, Mã đề, Mộc thông để lợi tiểu khi bị thuỷ thũng .

- Tiêu ứ : Dùng các vị thuốc như : Ðơn sâm, Hồng hoa, Tô mộc, Ðào nhơn để trị các chứng ứ huyết.

- Tiêu tích :  : Dùng các vị thuốc như : Miết giáp, Tạo giác thích, để trị các chứng ung nhọt, kết hạch.

Chống chỉ định : Không nên dùng trong trường hợp người có thai. Vì đây là phương pháp chữa triệu chứng nên cần phối hợp với các vị thuốc chữa nguyên nhân.

   8/ BỔ PHÁP : ( Bồi dưỡng cơ thể )

          Dùng các vị thuốc chữa các chứng bệnh do công năng hoạt động của cơ thể bị giảm sút gọi là chính khí hư. Nhằm mục đích nâng cao thể trạng và giúp cho cơ thể thắng được tác nhân gây bệnh.

            Trên lâm sàng thường sử dung 4 nhóm chính :

- Bổ Âm :  Thường dùng thang Lục vị hoàn để chữa chứng Thận âm hư.

- Bổ dương :  Thường dùng thang Bát vị hoàn để chữa chứng Thận dương hư.

- Bổ Khí :  Thường dùng thang Tứ quân để chữa hội chứng suy nhược toàn thân.

- Bổ huyết : Thường dùng thang Tứ vật để chữa các chứng : Bần huyết, mất huyết.

Ngoài bốn phương thức trên người ta còn dùng phép bổ trực tiếp các tạng phủ như  : Phế hư bổ Phế, Tỳ hư bổ Tỳ hoặc Tâm hư bổ Tâm hoặc theo phương thức bổ mẹ sinh con .


Các tin khác :